Đã điều chỉnh chính sách thuế để hài hoà giá xăng dầu
(Chinhphu.vn) – Bộ Tài chính vừa cho biết đã có những điều chỉnh chính sách thuế đối với mặt hàng xăng, dầu để phù hợp với thực tế.
Thông cáo báo chí của Bộ Tài chính vừa phát hành giải thích rõ hơn về một số thông tin liên quan đến giá trong nước và thuế nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu.
Giá xăng tại Việt Nam thấp hơn các nước láng giềng
Theo công bố Global Petrol Price.com, giá bán lẻ xăng dầu của Việt Nam ngày 16/3/2016 đứng vị trí 27/180 nước, thấp hơn cả 3 nước có chung đường biên giới và Thái Lan.
Cụ thể, giá xăng tại Việt Nam là 0,65 USD/lít, trong khi đó tại Campuchia là 0,79 USD/lít, Thái Lan là 0,88 USD/lít, Trung Quốc là 0,91 USD/lít, Lào là 1,17 USD lít.
Như vậy, tuy điều kiện nhập khẩu xăng dầu của các nước trong khu vực, đặc biệt 3 nước có chung đường biên giới với Việt Nam về cơ bản như nhau, nhưng giá xăng của Việt Nam chỉ bằng 82,3% giá xăng của Campuchia, bằng 73,9% giá xăng của Thái Lan, bằng 71,4% giá xăng của Trung Quốc và chỉ bằng 55,6% giá xăng của Lào.
Theo Bộ Tài chính, lý do các nước trong khu vực cao hơn nước ta chủ yếu là do cơ cấu thuế, phí trong giá xăng dầu cao hơn Việt Nam vì xăng dầu nhập khẩu đều có giá chung của thế giới.
Thu hẹp chênh lệch về thuế nhập khẩu giữa các thị trường
Hiện tại, dư luận đang băn khoăn về sự chênh lệnh về thuế nhập khẩu giữa các thị trường, và Bộ Tài chính xử lý các vấn đề này như thế nào.
Đến nay Việt Nam đã ký kết 11 Hiệp định thương mại tự do trong và ngoài khu vực. Theo cam kết tại các Hiệp định thương mại tự do, các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu đang trong lộ trình giảm dần. Giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn mà mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với các mặt hàng xăng dầu được giảm mạnh.
Do việc đàm phán ký kết của từng Hiệp định tại các thời điểm khác nhau nên có các mức cam kết cắt giảm thuế suất khác nhau và vào các thời điểm khác nhau tùy theo từng Hiệp định. Theo đó, việc chênh lệch thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các Hiệp định là tất yếu, Bộ Tài chính khẳng định.
Trong 11 Hiệp định song phương, khu vực, có một số Hiệp định, mặt hàng xăng dầu thuộc danh mục “loại trừ” (không có nghĩa vụ cắt giảm). Cụ thể, đó là các FTA ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Australia-New Zealand, ASEAN-Ấn Độ, các FTA giữa Việt Nam với Nhật Bản và Chile.
Mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt năm 2016 đối với mặt hàng xăng dầu. Nguồn: Bộ Tài chính
Như vậy, mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) của mặt hàng xăng dầu hiện đang cao hơn so với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA này.
Tuy nhiên, để được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thì hàng hoá nhập khẩu từ các nước này phải bảo đảm điều kiện về xuất xứ (C/O), về điều kiện vận chuyển... Thực tế thời gian qua, không phải tất cả hàng hoá đều nhập khẩu từ các nước có ký Hiệp định FTA, và cũng không phải tất cả hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký FTA đều được hưởng theo mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt.
Theo quy định, đối với hàng hoá nhập khẩu theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt nhưng chưa nộp được chứng từ chứng nhận xuất xứ tại thời điểm khai hải quan, người khai hải quan khai theo mức thuế suất MFN hoặc thông thường, khi nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ trong thời hạn theo quy định tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, người khai hải quan khai bổ sung theo mức thuế suất ưu đãi đặc biệt tương ứng, được hoàn trả số tiền thuế chênh lệch đã nộp.
Trong năm 2015, số thuế (thuế nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB) đã thu từ xăng dầu nhập khẩu là 35.923 tỷ đồng, nhưng thực tế số thuế hoàn theo chứng từ doanh nghiệp nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ là 3.502 tỷ đồng, chiếm 9,75% tổng số thuế đã nộp.
Nhằm giảm bớt chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt từ các FTA của mặt hàng xăng dầu, ngày 17/3 vừa qua, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 48/2016/TT-BTC ngày 17/3/2016, với hiệu lực thi hành từ ngày 18/3/2016 (ngày công bố) quy định mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng dầu.
“Việc quy định mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng dầu tại Thông tư số 48/2016/TT-BTC nêu trên, về cơ bản đã đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước” Thông cáo báo chí của Bộ Tài chính khẳng định.
Không thiên vị doanh nghiệp xăng dầu
Thời gian qua cũng đã có ý kiến cho rằng các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tạo thuận lợi khi mức thuế nhập khẩu trong cơ cấu giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu trong nước tính theo mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN).
Một mặt, Bộ Tài chính cho biết, không phải tất cả xăng dầu nhập khẩu đều được nhập khẩu từ các nước có ký các FTA, mà ngay cả hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký các FTA cũng không phải tất cả đều được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA đó.
Ngoài ra xăng dầu nhập khẩu từ Singapore, Hàn Quốc về tới Việt Nam tốn thêm khoản chi phí về vận chuyển và bảo hiểm chiếm khoảng 6-7% giá xăng dầu nhập khẩu.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính cũng đồng tình cho rằng trước thực tế mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) cao hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại một số FTA, thì việc thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu tính theo mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) là không còn phù hợp.
Để khắc phục sự chưa hợp lý này, cùng với việc điều chỉnh giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công Thương có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng với phương án xác định mức thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu theo mức bình quân gia quyền của các Biểu thuế (MFN và FTA), tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu từ các nước ký Biểu thuế FTA được xác định theo quý (dùng số liệu của quý trước để tính cho quý sau) do Tổng cục Hải quan tổng hợp, xác định qua hệ thống hải quan điện tử.
Việc dùng mức thuế nhập khẩu bình quân gia quyền sẽ bảo đảm sát với thực tế hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp xăng dầu, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước, Bộ Tài chính khẳng định.